englishrainbow.com
 
   
   

Diễn Đàn
 Những chủ đề mới nhất
 Những góp ư mới nhất
 Những chủ đề chưa góp ư

 
Truyện cổ tích

Tṛ chơi chữ
Học từ vựng

(search by nick)

 
 

Forum > Ngữ pháp tiếng Anh >> stress

Bấm vào đây để góp ư kiến

 Post by: muaroi
 member
 ID 16696
 Date: 01/13/2008


stress
profile - trang ca nhan  posts - bai da dang    edit -sua doi, thay doi  post reply - goy y kien
lam` on cho minh` quy tac danh' trong am .rat' cam on .minh` thay' kho' hieu wua'


góp ư kiến
 Reply: ttran
 member
 REF: 97727
 Date: 01/13/2008


  profile - trang ca nhan  posts - bai da dang  edit - sua bai, thay doi   post reply - goy y kien, dang bai
Hi muaroi,

CHIẾN THUẬT TỪNG BƯỚC LUYỆN GIỌNG NÓI

1.Luyện từ

Cái lớn bắt đầu từ cái nhỏ. Muốn nói cả câu chuẩn th́ phải nói từng từ chuẩn. Sẽ có người cười khẩy, từ th́ làm sao mà sai được. Vừa rồi, có người bạn của tôi đi học một lớp luyện nói, ông thầy có cho cả lớp đọc một câu rất đơn giản, ví dụ "ecological thinking and ecology protection should go together". Bạn tôi chắc mẩm làm sao ḿnh có thể đọc sai một câu nói đơn giản đến nhường vậy. Nhưng nhầm to, vẫn sai như thường, các bạn tự phát hiện cái sai dễ mắc ở đây là ǵ nhé.

Khi luyện từ cần chú ư các điểm sau:

a. Phát âm: (hay âm đọc, không tính trọng âm) tiếng Anh là thứ tiếng không có quy tắc, nhưng cái không có quy tắc của nó cũng lại có quy tắc, mà cái sự quy tắc ấy cũng lại chẳng có quy tắc ǵ. Để phát âm đúng từng từ, ta vừa phải học thuộc, vừa phải liên tục tư duy để phát hiện và ghi nhớ các quy tắc ẩn dấu của nó. Một vốn từ vựng được coi là tối thiểu đủ dùng là 5000, th́ công việc của các bạn không phải là nhỏ đâu, tôi nghĩ rằng bạn sẽ phải nhớ tối thiểu cả ngàn trường hợp khác nhau. Từ những cái bất quy tắc thông thường như doubt (dawt), debt (det) cho đến những thứ quái thai như bury ('be:ri) th́ ta không có cách nào khác là học vẹt.

b. Trọng âm: cái này mới gọi là khoai. Sai về phát âm th́ c̣n châm trước được, v́ tiếng Anh địa phương thường không đáp ứng được nhu cầu này, chẳng hạn tiếng Anh-Latin, họ đọc chả khác ǵ tiếng Tây Ban Nha. Nhưng trọng âm th́ phải tuyệt đối chú ư. Bạn có thể phát âm sai, thậm chí sai toét, nhưng nếu đúng trọng âm th́ người nghe vẫn nắm bắt ngon. Chắc là mọi người đều biết, tiếng Anh cũng như một số ngôn ngữ phương Tây, người ta nghe trọng âm là chính. Nếu nói đúng trọng âm, th́ dù có nói nhỏ, hay bị nhiễu (như nghe qua đường điện thoại rè, hay trong lúc ồn ào…) người nghe vẫn có thể đoán ra được ư ḿnh định nói.

Một lần nữa, luyện trọng âm từ phải luyện word by word, nghĩa là từng từ một, và với 5000 từ vựng th́ công việc của các bạn không phải là nhỏ. Tuy nhiên quy tắc trọng âm th́ có đỡ hầm bà làng hơn.

Theo tôi, phải mất 3 tháng chú ư rèn luyện hàng ngày, th́ bạn mới có thể thay máu, hay ít ra hiệu đính được cách phát âm cho cái vốn từ vựng chắc chắn không phải là nhỏ của các bạn.

Một số lỗi trọng âm và phát âm thường gặp:

Nào hăy bắt tay vào để kiểm tra vốn từ nói (speaking vocabulary) của ḿnh xem. Hăy khư khư bên ḿnh cuốn từ điển, và check cách đọc của ḿnh với một vài từ phổ thông, rồi nh́n vào phần phiên âm, xem các bạn phát âm và nhấn trọng âm đúng đến cỡ nào. Các bạn đă phát hiện ra chỗ dễ sai của cái câu ví dụ trên kia chưa? Có rất nhiều điểm có thể sai khi phát âm và nhấn trọng âm, nhưng có những lỗi cơ bản thường mắc như sau:

a. Đọc như nhau khi biến trạng thái từ

Mọi người khi học nói một cách tự phát thường đọc tính từ, danh từ, động từ (hay biến “th́”) với cùng một kiểu cho nó dễ (chưa nói những người có cơ bản yếu c̣n không phân biệt được đâu là tính, danh, động). Nhưng chúng thường biến khác so với nhau trong cách viết, và từ đó, phát âm lẫn trọng âm cũng khác nhau. Hăy dùng từ điển để tra các cặp từ sau kể về trọng âm lẫn phát âm: export(n)-export (v); technology-technological; economy-economic; photograph-photography, conservation-conservative.... Nào các bạn đă thấy ḿnh không ổn chưa. Những bạn nào mà không sai những từ này là cũng đă là rất tốt rồi, có cơ bản về phát âm.

Bạn nào mà sai nhiều, th́ phải rất chú trọng, bạn đă cảm thấy con đường để nói chuẩn (chưa nói là hay) cũng không hề dễ dàng, đấy là một nguyên nhân cơ bản tại sao người Việt nói sai nhiều.

Có rất nhiều nguyên tắc để nhớ trọng âm cũng như phát âm, tôi không muốn nói ngay ra đây, v́ cũng mất thời gian, nhưng quan trọng là tôi muốn các bạn tự t́m hiểu trong quá tŕnh thay máu vốn từ của ḿnh.

b. Thiếu trọng âm phụ

Trong một từ dài 3-4 âm tiết trở lên, thường có trên 1 trọng âm. Ngoài trọng âm chính (biểu diễn bởi dấu phảy phía trên đầu, trước trọng âm) c̣n có trọng âm phụ (biểu diễn bởi dấu phảy phía dưới chân, trước trọng âm). Ví dụ environmental (in,vairơn'mentl). Các bạn cần phải đọc rơ cả trọng âm phụ này, c̣n các âm c̣n lại có thể nuốt đi. Quy tắc thông thường đối với trọng âm phụ là luôn đứng cách trọng âm chính một âm (trước hoặc sau).

c. Trọng âm nhấn chưa đủ đô

Các bạn đă ít sai trọng âm từ vẫn thường mắc lỗi này. Để nói được hay, th́ trọng âm chính cần phải có âm lượng gấp 2-2.5 lần âm thường, và có độ dài cũng tương tự, c̣n đối với trọng âm phụ th́ cũng phải 1.5-2 lần. Nhiều khi các âm không phải trọng âm có thể nuốt (đọc rất nhỏ trong cổ họng), nhưng phải nhấn các trọng âm rất rơ, rất to và dài (chưa nói là c̣n phải luyến nữa). Tóm lại là phải đủ đô!

C̣n nhiều lỗi nữa, các bạn có ư kiến đóng góp thêm cho phong phú.

***

2. Luyện ngữ và câu (phrases and sentences)

Ngay từ khi bắt đầu thay máu vốn từ vựng, bạn có thể bắt đầu vào luyện nói các ngữ và câu ngay. Tôi gọi Ngữ, hay ngữ nói, ở đây có nghĩa là các cụm từ trong một câu mà khi nói cần phải nói liên tiếp. Ngữ nói có thể giống, có thể khác với Ngữ thông thường trong ngữ pháp. V́ vậy, Ngữ ở đây có thể gọi là nhịp. Trong một câu có thể phân ra nhiều ngữ. (Chú ư đây là khái niệm của riêng tôi đặt ra để tiện gọi, không có tính kinh viện, quy tắc trên thực tế). Ví dụ một câu nói thông thường như như sau:

Being informed that the examination result is ready, I want to go to school right now.(3)

Nếu các bạn phải đọc chậm răi, th́ thông thường các bạn chỉ giảm tốc độ đọc đi (như kiểu quay chậm), đối với từng từ, từng từ một kiểu:

Being… informed… that… the… examination… result… is… ready…, I …want… to… go… to… school… right… now.

Nhưng trên thực tế, người ta chỉ giảm tốc độ đọc các từ đơn đi đôi chút, c̣n lại để đọc chậm răi, ta nên phân câu ra thành các ngữ có nhịp ngắn 2-4 từ như sau:

Being informed/ that the examination result/ is ready, I want /to go to school/ right now.

Sau khi đă phân đoạn như vậy, việc đọc chậm sẽ chủ yếu được thực hiện nhờ việc ngắt nghỉ giữa các Ngữ. V́ vậy, muốn đọc chậm răi bao nhiêu, ta chỉ việc nghỉ dài tương đương bấy nhiêu giữa các ngữ, chứ không hề phải đọc ê a kéo dài từng chữ như thông thường trong tiếng Việt. Câu trên sẽ được nói chậm răi theo phong cách sau:

Being informed……… that the examination result……… is ready,……… I want ........to go to school ........right now.

Tại sao phải nghỉ, nói chung là để ta có thời gian nghĩ sẽ nói tiếp cái ǵ (như các cụ thường dạy “uốn lưỡi bẩy lần trước khi nói”). C̣n trong tập nói, th́ đơn giản là để ta có thời gian chuẩn bị cho việc nói tiếp các ngữ tiếp theo. Việc ngắt nghỉ này giúp ta khoan thai, tránh hấp tấp, tránh việc bị nói dồn dập mà vấp váp, khô khan. Các bạn cứ thử xem, sẽ thấy ngay ḿnh nói chậm khá dễ dàng, và có vẻ khá hay. H́ h́, thực ra nếu các bạn để ư nghe CNN, BBC, sẽ thấy các chính khách (Bill, Bush chẳng hạn) đều nói khá chậm răi theo phong cách này. Các ông này thường ngắt nghỉ rất hợp lư trong câu nói, có khi nghỉ khá lâu mặc dù tốc độ trong một ngữ cũng không chậm hơn b́nh thường là mấy. Việc ngắt nghỉ này khiến câu nói trở nên có NGỮ, có nhịp.

Một điều chú ư nữa trong câu ví dụ trên, là ngoài ngắt nhịp, th́ các trọng âm cũng cần được nhấn mạnh và DÀI hơn các âm khác. Trong số các trọng âm đó, lại có các trọng âm được nhấn bật lên so với các trọng âm khác. Ta gọi đó là các trọng âm câu. Trọng âm câu là trọng âm của các từ quan trọng đa âm tiết hay chính là từ quan trọng đơn âm tiết.

Câu trên thông thường sẽ phải nói như sau:

Being info...rmed……… that the e..xamina....tion resu..lt……… is re....ady,………… I wa....nt ........to g..o to scho....ol ........right no...w. (độ dài chấm biểu hiện độ dài tương đối)

Trong câu trên, các từ quan trọng là examin(a)tion, w(a)nt, sch(oo)l, n(ow), v́ nó mang lại thông tin chính cho câu. Việc chọn trọng âm câu thực ra tuỳ theo mỗi người nói và tuỳ vào văn cảnh mà ta nên nhấn vào các âm tiết khác nhau. Việc nhấn trọng âm từ và trọng âm câu đủ đô, là một yếu tố quan trọng giúp ta nói không bị như súng bắn, khiến tốc độ trong một ngữ cũng đă giảm đáng kể. Đây là Điệu để mà tạo thành cái gọi là NGỮ ĐIỆU nói.

Nào, giờ là lúc thực hành, các bạn hăy kiếm ngay một trang tiếng Anh nào đó mà bạn cho là phù hợp và cầm sẵn cây bút ch́. Trước hết đọc lướt qua rồi dùng bút ch́ ngắt nhịp câu, đồng thời gạch chân các trọng âm câu. Sau đó là luyện đọc, với các yêu cầu sau:

- Thong thả nói chung
- To và rơ ràng
- Nhấn trọng âm từ (1.5-2 lần dài và to hơn b́nh thường)
- Nhấn trọng âm câu (2-2.5 lần so với b́nh thường)
- Nghỉ giữa các ngữ (tuỳ vào mỗi người, thông thường là không dưới 1/3-1/2 giây)
- Dần dần nuốt các âm tiết không quan trọng như các quán từ (a, an, the); các giới từ (to, in, on, up… trừ khi ta muốn nhấn mạnh các quán từ này); và các âm không phải trọng âm trong từ đa âm tiết. Kỹ thuật nuốt âm là đọc nhỏ và lướt nhanh, gần như không để âm thoát ra khỏi cuống họng.

Luyện hát (nhất là những bài hát có lời nhanh thể loại Pop Rock) là một cách rất tốt để luyện nuốt âm, từ đó bổ trợ cho luyện trọng âm (v́ khi các âm thường bị nuốt th́ những âm c̣n lại sẽ phải là trọng âm). Tuy nhiên, cũng phải lưu ư, không những nhịp điệu hát khác với nhịp điệu nói, mà đôi khi các âm c̣n bị thay đổi so với b́nh thường để phù hợp với bài hát (ví dụ, các quán từ đáng nhẽ phải đọc lướt th́ trong bài hát thỉnh thoảng vẫn được nhấn dài để đáp ứng các giai điệu). (4)

Chiến thuật luyện đọc là:

- Luyện từng từ: đọc từng từ một cho chuẩn rồi mới luyện đọc cả ngữ (dùng từ điển để tra phát âm và trọng âm)

-Luyện từng ngữ: đọc từng ngữ một cho chuẩn một (vài) lượt rồi mới đọc cả câu.

-Luyện từng câu: Đọc từng câu một cho chuẩn rồi mới đọc cả đoạn.

Vạn sự khởi đầu nan, các bạn cần rất kiên tŕ và cẩn thận trong giai đoạn bắt đầu này, nó có thể mất 1-2 tuần hay hơn để quen với việc ngắt nghỉ, nhấn trọng âm cho đúng (thời gian này tuỳ vào mỗi người cảm thấy là đủ chưa, dù chả có ǵ là đủ cả). Sau khi đă thành thói quen, th́ việc học nói nhờ đọc diễn cảm này sẽ thông suốt hơn. Lúc ấy, bạn có thể bắt đầu việc học nói nhờ đọc trực tiếp các đoạn tiếng Anh dài mà không cần phải bắt đầu từng ngữ từng câu nữa.

Tuy nhiên, việc luyện từng từ th́ vẫn phải tiếp tục, cho đến khi bạn nhớ trọng âm và phát âm của cả vốn từ vựng của bạn. Cần luôn lăm lăm quyển từ điển, đọc từ nào không chắc phát âm và trọng âm là phải tra ngay, và luôn có ư thức rút ra quy tắc và kinh nghiệm.

Hăy ghi nhớ, luyện tập một cách chuyên nghiệp và bài bản bao giờ cũng có vẻ nhàm chán trong giai đoạn đầu, chỉ luyện đi luyện lại từng kỹ năng nhỏ, một động tác nhỏ, ở đây là các từ, các ngữ, các câu. Nếu các bạn đă có thời gian chơi thể thao một cách bài bản như bóng bàn, cầu lông, bóng đá... hay xem người ta tập, sẽ hiểu rơ hơn sự đầy ải khi học nói này. Phải kiên tŕ và có ư thức. Chả c̣n cách nào khác.

Ngoài ra, bạn cần tham khảo cách nói của ng bản ngữ bằng cách nghe các cuộc diễn thuyết, phát biểu trên TV (tốt hơn là bản tin, v́ bản tin là dạng official speaking, việc nhấn và ngắt nghỉ ở cấp độ b́nh thường), đặc biệt là các chính khách Mỹ, v́ ng Anh thường nói như súng bắn (Tony Blair là một ví dụ, ông ta nói tương đối nhanh so với các chính khách Mỹ). Việc tham khảo này sẽ giúp bạn so sánh và điều chỉnh cách đọc của ḿnh. Nghiên cứu khoa học c̣n phải tham khảo rất nhiều tài liệu, nữa là học nói, nhỉ!!!
ĐỂ CÓ MỘT GIỌNG NÓI HAY

Nếu đọc chuẩn được phát âm, nhấn đúng và đủ trọng âm từ và trọng âm câu, đồng thời ngắt nghỉ hợp lư th́ đă có thể nói là khá tốt rồi, gọi là nói có Ngữ điệu. Tuy nhiên, lúc này vẫn chưa thể gọi là nói hay (beautifully) được mà mới chỉ có thể gọi là nói lưu loát (fluently). Bạn nên nhớ rằng ngay cả người bản ngữ cũng không đồng nghĩa với việc nói hay. Ví dụ người Việt chúng ta, không phải ai cũng nói một thứ tiếng Việt hay và đẹp, dễ đi vào ḷng người.

Bởi vậy, để nói hay, ai cũng phải luyện tập cả, không phân biệt người bản ngữ hay người nước ngoài (tất nhiên là người bản ngữ có thuận lợi rất lớn không thể phủ nhận). Một ví dụ điển h́nh là tổng thống Bush, nếu ai để ư thời sự có thể thấy ông ta càng ngày càng luyện được giọng nói hay hơn, nếu so với thời c̣n đang tranh cử th́ quả là khác biệt rất nhiều. Tuy nhiên, để so với Bill th́ c̣n phải phấn đấu nhiều, v́ với Bill nói hay đă như là một bẩm sinh (nhưng cũng không có nghĩa là ông ta không phải tập nói). Ngoài ra, các bạn có thể thấy những người phát thanh viên trên TV đều phải qua các lớp tập nói nhằm thi vào đài truyền h́nh.

***

Ngoài các yếu tố cơ bản đă tŕnh bày ở các phần trước, nói được hay c̣n cần một yếu tố quan trọng là Giai Điệu (melody). Giai điệu cũng có thể chia ra 2 loại:

1. Giai điệu của từ

Hay đúng ra là giai điệu của trọng âm (của từ đa âm tiết và âm của từ đơn âm tiết). Không chỉ đơn thuần nhấn dài và mạnh cho đủ đô đối với trọng âm của từ, mà ta c̣n phải Luyến nữa. Bởi v́ trọng âm thường kéo dài gấp đôi gấp rưỡi các âm khác, nên nếu ta chỉ kéo dài nó ra và đọc to nó lên một cách chân phương nghe sẽ rất đơn điệu (khác với tiếng Việt có 5 thanh, cứ đọc ra đă có giai điệu rồi).

Để giải quyết vấn đề này, người ta phải luyến các trọng âm sao cho nghe thật sinh động. Có rất nhiều phong cách luyến tùy theo vùng ngôn ngữ, nhưng 3 vùng đặc trưng là Anh, Mỹ và Úc, chúng có các tính chất khá riêng biệt trên cùng một cơ sở chung. Trong đó, Anh-Mỹ có vẻ có phong cách luyến nghe ngọt hơn cả.

Việc luyến như thế nào cho đúng rất khó nói qua bài viết, hơn nữa c̣n tuỳ vào bạn thích luyến theo kiểu ǵ, chứ bạn bảo hăy luyến theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ th́ ba đầu sáu tay tôi cũng chịu. Tuy nhiên, về cơ bản, việc luyến trọng âm khá giống với thanh NGĂ (~) trong tiếng Việt, khi kéo dài ra và đọc trầm bổng một cách rơ ràng hơn. Nghĩa là đầu tiên bạn thổi âm cho vồng lên rồi lại đè xuống, và kết thúc hơi lên một chút. (đồ thị cường độ âm tương tự như h́nh dấu ~). Nhưng hăy chú ư là nếu đọc khan như dấu Ngă của tiếng Việt (cụt lủn), th́ chả bao giờ bạn đọc đúng cả, phải nhấn đủ đô (dài và mạnh).

Về lư thuyết là thế, nhưng để cho nhanh, các bạn nên tham khảo ngay trên TV, radio hay nghe người bản ngữ nói để tập theo (bản ngữ ở đây là các nước nói tiếng Anh chính thống).

2. Giai điệu của câu

Tương tự, trong câu có các trọng âm câu th́ tương ứng cũng phải có giai điệu của câu. Cái này khó có thể miêu tả ở đây. Tôi chỉ muốn lưu ư các bạn về vấn đề này. Đây là điểm cứu cánh, tính chất quyết định cuối cùng đến một giọng nói hay.

Về nguyên tắc, câu nói phải lên bổng xuống trầm với các mốc của nó là các Trọng Âm Câu (xem phía trên). Các trọng âm câu không chỉ phải luyến nuột và rơ hơn các trọng âm thường một cách đơn thuần, mà nó c̣n phải có vai tṛ lănh xướng (lead) các âm tiết quanh nó. Nghĩa là trước và sau khi luyến trọng âm câu, th́ các âm tiết quanh nó cũng phải có một sự hậu thuẫn làm nền như thế nào đó...

*****

CÁC PHONG CÁCH NÓI TRONG TIẾNG ANH PHỔ THÔNG

Sau khi đă luyện được giọng nói có giai điệu, luyến liếc ngon lành, bạn có thể bước vào giai đoạn luyện nói thực sự hay luyện nói thực hành (practical speaking). Lúc này, bạn có thế coi có xuất phát điểm tương đương với người một bản ngữ thông thường. Thách thức của bạn bây giờ là nói phải hay, phải hấp dẫn người nghe, thậm chí hấp dẫn cả người bản ngữ.

Cũng như các ngôn ngữ khác, tiếng Anh có rất nhiều phong cách nói . Nếu các bạn không phân biệt được các phong cách trong các t́nh huống khác nhau, cứ bê nguyên một kiểu giọng mọi lúc mọi nơi th́ dễ mắc phải tật ăn nói lộp bộp như gà mắc tóc. Nói chuyện phiếm ở quán nước phải khác với tranh luận trong cuộc họp, phát biểu phải khác với đọc bản tin…

Có rất nhiều phong cách, nhưng tôi tạm chia ra các phong cách chính như sau:

1. Giọng nói chuyện thông thường:

Đây là phong cách phổ thông nhất mà ai cũng dùng hàng ngay khi tṛ chuyện. Chính v́ thế, nó cũng không có quy tắc ǵ cả, ai thích nói kiểu ǵ th́ nói, trầm bổng, đều đều, nhỏ to đều ok cả. Nhưng v́ tṛ chuyện thường dài, phải nói nhiều nên người ta hay nói nhanh, chú ư tới trọng âm nhưng ít luyến, đồng thời nuốt âm tiết phụ rất nhiều. Các bạn có thể tham khảo trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là trên điện ảnh (cái mà ng ta vẫn nói là “Phim Mỹ nghe khó bỏ cụ”).

2. Giọng đọc bản tin, báo cáo

Đọc bản tin, báo cáo hay các loại h́nh tương tự đă bắt đầu phải có t́nh h́nh thức (formal) rồi. Người đọc bản tin có thể nói nhanh chậm tuỳ ư (các phóng viên và phát thanh viên của BBC, CNN thường đọc bản tin hay báo cáo khá nhanh, đặc biệt là tin nóng). Nhưng một yêu cầu quan trọng là phải rơ ràng, mạch lạc (v́ đối tượng nghe là quần chúng) và trung tính, nghĩa là không nên đặt cảm xúc cá nhân vào câu nói (v́ bản chất thông tin là phải khách quan).

3. Giọng đọc chương tŕnh khoa học, phóng sự

Giọng đọc các chương tŕnh kiểu phóng sự, khoa học thường thức… có yêu cầu cao hơn giọng bản tin. Nó có các tiêu chí sau:

- Rơ ràng mạch lạc (dĩ nhiên)
- Khoan thai (để người nghe c̣n có thời gian nắm những thông tin, nhất là thông tin khoa học)
- Mềm mại với một chút truyền cảm tương đối (nhằm mục đích lôi cuốn người nghe vào các thông tin thường là mới, chứ không phải đưa cảm xúc hay ư đồ cá nhân vào)

4. Giọng hùng biện

Đây là cấp khó nhất trong việc nói. Ngay chuyện nói trước công chúng đă không phải là việc dễ, nhất là với người Việt hay xấu hổ. Từ phát biểu, đọc diễn văn, đến diễn thuyết hay tŕnh bày (present) hoặc nghị/tranh luận (luật sư chẳng hạn) trước đám đông đ̣i hỏi nhiều kĩ năng kết hợp, một trong đó là giọng nói hấp dẫn. Cái này là kết quả của năng khiếu cộng với luyện tập kiên tŕ. Nếu bạn là người không có khiếu hùng biện, th́ hăy cần cù bù thông minh. Ngày trước có chuyện về một người hồi bé nói không ra hơi, về sau nhờ hàng ngày ngậm sỏi đứng nói át tiếng sóng biển mà trở thành nhà hùng biện nổi tiếng.

Ngoài các yêu cầu mạch lạc và rơ ràng, để luyện phong cách rất xương này ngoài c̣n phải rất lưu ư các điểm sau:

- Tốc độ: có thể lúc nhanh dồn dập, lúc khoan thai điềm đạm nhấn từng chữ tuỳ vào ư người muốn tŕnh bày. Đặc biệt trọng âm câu phải rất chú trọng v́ nó nêu bật ư người nói. B́nh thường ta có thể nói với tốc độ trung b́nh, nhưng đến các từ khoá hay ngữ khoá, ta phải chậm lại, nhấn mạnh và rơ.

- Âm lượng: lúc trầm lúc bổng có kiểm soát, đặc biệt chú ư thổi âm và luyến vồng ở các trọng âm câu hay từ/ngữ khoá.

- Cảm xúc: càng truyền cảm càng tốt, v́ phong cách này là phục vụ mục đích cá nhân (hay đại diện một tổ chức) nên càng khiến người nghe đồng t́nh với ḿnh th́ càng tốt (motivating).Tuỳ theo ư đồ, người nói hoà cả cảm xúc lẫn ư chí của ḿnh vào câu nói, nhờ đó mà điều khiển tốc độ và âm lượng theo ư ḿnh, giúp cho việc biểu hiện (express) được cái hồn của vấn đề.

Trên đây là 4 phong cách chính trong tiếng Anh nói riêng và các ngôn ngữ nói chung (kể cả tiếng Việt). Ngoài ra, c̣n có các phong cách trung gian, hay kết hợp giữa các phong cách trên, các bạn có thể bổ sung thêm cho đa dạng.

Việc phân biệt các phong cách nói theo t́nh huống là rất quan trọng, để người nói có thể lựa chon giọng nói cho phù hợp, nhằm đạt kết quả là truyền đạt thông tin đến người nghe một cách tối ưu. Hơn nữa, các phong cách khá khác biệt, không thể bệ nguyên cách nói ở t́nh huống này vào một t́nh huống khác được.

***

Đến đây tôi tạm kết thúc loạt ‘lan man’ về luyện nói mà tôi đă đúc kết từ kinh nghiệm của chính bản thân tôi, từ ngày chập chững học nói tiếng Anh. Hi vọng nó sẽ bớt giáo điều và có tính thực hành cao hơn, v́ tôi chia sẻ với các bạn với tư cách cũng là một người đang tự học, hiểu rơ hơn hoàn cảnh của những người học sinh, đặc biệt những vướng mắc thường gặp mà đôi khi các thầy giáo v́ ở tŕnh độ quá cao không thể lường được từ học tṛ của ḿnh.

Tuy nhiên, các bạn phải dựa vào chính sức ḿnh, tự t́m ṭi ra phương pháp của riêng ḿnh trong quá tŕnh tự rèn luyện, với sự hỗ trợ của các tham khảo đắc lực là TV, radio hay người thực việc thực. Mọi lư thuyết sách vở chỉ là giáo điều, chỉ là cặn bă của người viết (Trang Tử), thực tế mới là quan trọng, bởi v́:
PHỤ LỤC 1: CÁC QUY TẮC TRỌNG ÂM VÀ PHÁT ÂM THƯỜNG GẶP

Qua quá tŕnh luyện từ, tôi xin cung cấp một số quy tắc nôm na về trọng âm. Tôi không muốn lư luận nhiều như một số tài liệu về phát âm khác, mà chú trọng đến tính thực hành. Thiết nghĩ, nhớ các lư luận phát âm để làm ǵ, cái đấy dành cho các nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Nhớ trực tiếp các trường hợp thực tế c̣n nhanh gọn và đỡ tốn bộ nhớ hơn.

Vị trí tương đối của trọng âm so với các tiếp/hậu tố (suffix) đặc biệt

* Ghi chú:

Kí hiệu: ‘### trọng âm chính; ,### trọng âm phụ; Thông thường, các trọng âm phụ có thể không được kí hiệu trong một số từ điển, nhưng khi nói, các trọng âm phụ bao giờ cũng được đọc khá rơ. Thực chất, rơ nhất là trọng âm chính, sau đó là trọng âm phụ, c̣n các âm c̣n lại th́ có thể nuốt đi.

Quy tắc: Trọng âm phụ hầu hết đứng cách trọng âm chính 1 âm tiết (trước hoặc sau). Một số ngoại lệ đứng cách 2 âm tiết như: ‘classifi’cation; de,terio’ration;…

1.Các hậu/tiếp tố (suffix) thường là Trọng âm:

#eer: engi’neer, volun’teer; pio’neer;…
#ese: ,Japa’nese; ,Vietna’mese;…
#ental: en,viron’mental; ,conti’nental;…


2.Trọng âm thường đứng ngay trước các hậu tố (suffix) sau:

--#ion: ,inter’nation; com’passion; re’ligion; ‘fashion …
--#ure: ad’venture‘; cre’ature; ‘pleasure; ‘injure;… (hầu hết áp dụng cho Danh từ, v́ với động từ có một số trường hợp đặc biệt như in’sure, en’sure…v́ trọng âm của động từ thường nằm ở âm tiết thứ 2)
--#ity: mu,nici’pality; ,possi’bility; ac’tivity; ‘family;…
--#ogy: tech’nology; bi’ology; ,metho’dology;…
--#aphy: bi’ography; pho’tography;…
--#ian: ,indo’nesian; ’indian;…
--#(i)um: ,audi’torium; a’quarium; mo’mentum, …
--#ial: ma’terial; ‘aerial;…
--#ative (mostly in 4 syllabled words): ‘talkative;con’servative; in’formative… (exception: ‘quantitative, ‘qualitative…)
--#ive (mostly in 2-3 syllabled words): con’ductive; pro’gressive, ‘active; ‘passive;…
--#ic(al): ‘infor’matic; ‘techno’logical, an’gelic; ‘comic…
--#ient/ienc#: efficien-t/ce/cy; pro’ficien-t/cy;…
--#ual: ,indi’vidual; con’ceptual;…
--#ious: re’ligious; de’licious; am’bitious …
--# ify: i’dentify; ’modify;…
--#ish: ‘English; de’molish; es’tablish;…

3.Trọng âm thường đứng cách một âm tiết trước các hậu tố (suffix) sau:
(đương nhiên chỉ áp dụng cho các từ có từ 3 âm tiết trở lên)

Chú ư: Một số hậu tố đơn thường là trọng âm phụ, hay chí ít cũng được đọc khá rơ (dù trong một số từ điển không ghi kí hiệu (,) là trọng âm phụ)

--*#ate: cer’tifi,cate; ‘confis,cate; …
--*#ise/ize: in’dustria,lise; ‘visua,lize; …
--*#age: ‘sabotage; ‘heritage;…
--*#ism/ist: ,ento’mologist; ‘moder,nism/ist; ‘natura,lism/ist ( (tural) đă bị đọc nuốt thành một âm là (tSral) nên (na) vẫn coi là cách (ism) một âm tiết); …
--*#er: phy’loso,pher; pho’togra,pher; in’terpre,ter; ‘moni,tor; ‘bache,lor;.. (ngoại trừ một số danh từ chỉ người được tạo nên bởi việc thêm (er) vào động từ 2 âm tiết vốn thường có trọng âm ở âm tiết thứ 2: per’form -- > per’former; … hoặc với trường hợp có (#ator) như co’ordi,nator; co’ope,rator;… v́ giống trường hợp chứa tiếp tố (--#ate) )
--*#ory/ary: pre’paratory; vo’cabulary; la’borotory; ‘fragmentary… (nhưng đây là quy tắc yếu v́ có nhiều trường hợp trọng âm nằm ngay trước nó chứ không cách: ,satis’factory, ,manu’factory; hay trong từ chỉ có 3 âm tiết: ‘sensory…)

4. Một số quy tắc khác

- Đối với động từ và tính từ có 2 âm tiết, th́ trọng âm hầu hết nằm ở âm tiết thứ 2: im’port; ex’port; im’pact; ...; co’rrect; e’xact;...

- Đối với danh từ có 2 âm tiết, th́ trọng âm hầu hết nằm ở âm tiết thứ nhất: ‘export; ‘import; ‘impact; ‘effort;...

- Đối với từ có 4 âm tiết kết thúc bằng #ent; #ence; #ency; #ant; #ance th́ trọng âm đứng ở âm tiết thứ 2: en’vironment; e’quivalen-t/ce/cy; sig’nifican-t/ce;...

- Đối với từ có 3 âm tiết kết thúc bằng #ent; #ence; #ency; th́ trọng âm thường đứng ở âm tiết thứ 1 khi bắt đầu có phụ âm: ‘preferen-t/ce; ‘consequen’t/ce;… c̣n đứng ở âm tiết thứ 2 khi bắt đầu bằng nguyên âm (trừ i) đơn thuần (nghĩa là ḿnh nguyên âm tạo nên âm tiết thứ nhất, không kết hợp với phụ âm): e’mergen-t/ce/cy; occuren-t/ce;…

- Đối với từ có 2 âm tiết (đặc biệt là danh từ) th́ trọng âm thường nằm ở âm tiết thứ nhất khi có các hậu tố sau: #ate, #ism/ist, #ent; #er, #age, #ous: ‘climate; ‘marxism; ‘artist; ‘payment; ‘player; ‘manage; ‘famous…

Trên đây là một số quy tắc thường gặp nhất mà tôi tổng hợp được, xin mời các bạn đóng góp thêm cho phong phú.

*****

PHỤ LỤC 2: LAN MAN MỘT CHÚT VỀ PHÁT ÂM

1. Anh-Anh và Anh-Mỹ

Các bạn học nói tiếng Anh thường băn khoăn là ḿnh nên theo phong cách Anh-Anh (A-A)hay Anh-Mỹ (A-M). Thực ra theo phong cách nào cũng tốt cả, nhưng mọi người thường có xu hướng sính A-M hơn, nhà giàu cũng có khác nhở.

Vậy 2 ḍng tiếng Anh này khác nhau những điểm nào trong phát âm:

- Phụ âm (r): A-M thường đọc rơ âm (r) trong mọi trường hợp, c̣n A-A th́ để câm nếu nó không phải là phụ âm chính. Ví dụ (sir): A-M = [sơr:]; A-A = [sơ]. Nhưng thực ra, hầu hết các ḍng tiếng Anh phương Tây như Anh-Đức, Anh-Hà Lan…hay cả Anh-Úc đều giống A-M trong trường hợp này. Nghĩa là chỉ có tiếng Anh thuần mới cải biên thế này, c̣n lại đều rrrrrrr hết.

- Phụ âm (o) ngắn: A-M đọc tương tự như [a]; c̣n A-A th́ vẫn là [o]. Ví dụ, (not): A-M = [nat]; A-A = [not]

- Các nguyên âm ngắn không phải trọng âm: trong A-A, các nguyên âm như e, a, i, o, u khi ở dạng “ngắn” (khác với dạng dài th́ có kư hiệu (sau phiên âm như [o:], [a:]…) th́ vẫn đọc như thường, nghĩa là quy tắc rất lung tung; c̣n trong A-M th́ có xu hướng đơn giản hoá bằng cách đọc thành [ơ]. Ví dụ hậu tố (#ity) trong A-A đọc là [ity] c̣n A-M đọc là [ơty]; (#ful) trong A-A là [ful] c̣n A-M là [fơl]; (definite) trong A-A [‘definit] c̣n A-M th́ [‘defơnơt]; (certificate, n) trong A-A là [sơ’tifikit] c̣n A-M là [sơ’tifơcơt]; (contribute, v) trong A-A là [cơn’tribjut] c̣n A-M là [cơn’tribjuơt]… Điều này có lẽ v́ trong A-M, xu hướng nuốt âm mạnh hơn, nên các âm tiết không phải là trọng âm (chính hoặc phụ), thường chỉ được đọc gió phụ âm mà nuốt đi nguyên âm. V́ thế các âm sẽ bị biến đổi kiểu: …fi… -- > […f(ơ) …]; …cate […kit]-- > [k(ơ)t]

Trên đây là nhưng điểm khác nhau nổi bật giữa 2 ḍng tiếng Anh chính trên thế giới là Anh-Anh và Anh-Mỹ (nếu không tính Anh-Úc vẫn bị coi là hơi “nhà quê”). Tất nhiên c̣n rất nhiều chi tiết nho nhỏ khác trong phát âm như giọng điệu, cách luyến… C̣n nếu xét một cách toàn diện th́ nói bao nhiêu cũng không hết về ngữ pháp, văn phong, cách dùng từ, điểm câu…

2.Những lỗi hay mắc điển h́nh trong nói tiếng Anh

a.Không phân biệt khi thay đổi trạng thái động-danh- tính:

Như đă nói ở trên, khi biến đổi động-danh- tính (trạng từ không tính v́ nó chỉ biến đổi rất nhỏ bằng cách thêm ly vào cuối, trừ những tính từ bất quy tắc), th́ chính tả của từ thường thay đổi, dẫn đến sự thay đổi của trọng âm và như một hệ quả, phát âm của cùng một âm tiết gốc cũng thay đổi tương ứng. Những người không được luyện phát âm cơ bản, thường mắc lỗi đánh đồng phát âm và trọng âm các âm tiết gốc của động-danh- tính của cùng một từ cho nó đơn giản. Lỗi này có thể do vô t́nh v́ không biết, hoặc do cố t́nh v́ biết nhưng lười nhớ.

Các bạn hăy chú ư từng chi tiết trong phiên âm của các ví dụ sau:

Inform [in’fo:m]-information [,info:’meiSơn]-informative [in’fo:mơtiv]
Prefer [pri’fơ]-preference [‘pref(ơ)rơns]-preferential [,pref(ơ)’renS(ơ)l]
Photograph [‘foutơgraf]-photograph-y/er[fơ’togrơf-i/ơ]-; photographic[,foutơ’graefik]-

Thế nào, chúng khác nhau hơi bị nhiều chi tiết đấy nhỉ, từ vị trí trọng âm chính và phụ lẫn phát âm???

Các bạn thấy rơ ràng là trọng âm thay đổi vị trí. Sở dĩ có sự thay đổi vị trí trọng âm bởi v́ khi biến động-danh-tính, các tiếp/hậu tố thường được thêm hoặc bớt, và sự có mặt của các tiếp/hậu tố này sẽ tác động đến vị trí của trọng âm (e.g. Phụ lục 1).

Sự thay đổi vị trí của trọng âm khi biến đổi trạng thái động-danh-tính của từ dẫn đến một hệ quả là cách phát âm của các âm tiết trong từ đó cũng thay đổi. Thông thường, có các quy tắc tương đối sau:

- Khi nằm ở trọng âm (chính và phụ), các nguyên âm đơn thường được đọc theo phát âm thuần (khá giống phát âm gốc Latin) của nó: a [ae]; e [e]; o [o] (trong A-M đọc lái thành [a]); i [ i]; u [u/ju]; Các nguyên âm kép cũng thường được đọc theo quy ước: ai [ei]; ee, ie [i:]; ea [e:]/ [i:];… Dĩ nhiên, quy tắc này chiếm một % khá cao, chứ vẫn có rất nhiều trường hợp chúng phát âm theo quy ước bảng chữ cái như: a [ei] trong #ation [#eiS(ơ)n]; e [ i] trong ecomomic [,icơ’nomik]; o [ou] trong #otion [#ouS(ơ)n]; I [ai] trong finite [‘fainait];…

- Khi không phải là trọng âm, các nguyên âm đơn thường đọc khác đi, o [ơ]; e [ i]; a [ơ]; u [a]/ [ơ];… đặc biệt trong A-M th́ đa số được nuốt âm để thành [ơ] như đă nói ở trên. Các nguyên âm kép th́ thường là bất quy tắc, có khi phát âm theo quy ước, có khi lung tung cả.

Các bạn có thể thấy 2 quy tắc trên qua các ví dụ trong bài này, hoặc cụ thể là ví dụ sau:

Academy (n) [ơ’kaedơmi] – academic (a) [,aecơ’demik]

Ngoài ra, ngay cả khi từ được giữ nguyên dạng chính tả khi thay đổi trạng thái th́ có rất nhiều trường hợp vị trí trọng âm cũng thay đổi.

- Trường hợp hay gặp là các từ có 2 âm tiết mà danh và động từ như nhau, ví dụ: impact(n) [‘impaekt]-impact(v) [im’paekt]-; ‘export(n) [ekspo:t]-ex’port(v) [iks’po:t ]; record(n) [‘rekơ:d] - record [ri’ko:d]… (xem 4. Một số quy tắc khác, Phụ Lục 1).

- Một số trường hợp giữ nguyên dạng khác: hậu tố (#ate): ở động từ, phát âm là [#eit] và được nhấn như một trọng âm phụ; nhưng nếu ở danh-tính từ th́ là [#it] (A-A) hay [#ơt] (A-M) và nhấn nhẹ hơn: certificate(v) [sơ’tifi,keit]/ [sơ’tif(ơ),keit] - certificate(n) [sơ’tifikit]/ [sơ’tif(ơ)kơt]; elaborate(v) [i’laebơ,reit] - elaborate(n, a) [i’laebơrit]/ [i’laeb(ơ)rơt].

- Tuy nhiên, cũng có rất nhiều trường hợp bất quy tắc. Ví dụ trong các từ 2 âm tiết có danh và động từ như nhau, th́ cả phát âm lẫn trọng âm cũng như nhau luôn, ví dụ: re’port; de’lay;…Trường hợp giữ nguyên như thế này có khi nhiều hơn cả trường hợp có biến đổi, nên không biết là cái nào mới gọi là bất quy tắc.

b. Một số trượng hợp cụ thể về phát âm dễ sai:

-Hậu tố (#age): sai: [#eidZ] - đúng: [#idZ] (heritage…), đặc biệt hơn là sabotage [‘saebơtadZ]

-hậu tố (#ate) ở danh hay tính từ chỉ có một trạng thái không biến đổi: sai [#eit] – đúng [#it]/[#ơt]. ví dụ: climate [‘claimit]/[‘claimơt]; hostel-mate [‘host(ơ)lmit]/[‘host(ơ)lmơt]; affectionate [a’fekS(ơ)nit]/ [a’fekS(ơ)nơt];…

-hậu tố (#able): sai [#eibl] – đúng [#ơbl]. Ví dụ: vegetable: sai [‘vedZteibl] – đúng [‘vedZtơbl]; comfortable: sai [‘kamfơteibl] – đúng [‘[‘kamfơtơbl];… (ngoại lệ: unable [a’neibl]).

-#ea#: khá là bất quy tắc, khi th́ là [#i:], khi là [#e:], đặc biệt là biến đổi khi biến đổi trạng thái của từ, ví dụ: threat (n) [thre:d]– threaten [‘thri:t(ơ)n]; read (v) [ri:]– read (quá khứ) [re:d]; lead (v) [li:d]: lănh đạo – lead (n) [le:d]: ch́ (đồng âm khác nghĩa);…

-Ngoài ra, có các từ cụ thể mà thường bị sai: Knowledge: sai [‘nouledZ] - đúng [‘no:lidZ]; tomb raider: sai [tomb raidơ] – đúng [tum reidơ]; load: sai [lwad] – đúng [loud] (trường hợp trong tin học); exhibition: sai [,ikshi’biSn] – đúng [,eksi’biSn];

C̣n rất nhiều điểm khác, đề nghị các bạn đóng góp vào cho phong phú.

***

Lời cuối:

Về phát âm, thật chuẩn theo một ḍng Anh ngữ chính thống như Anh-Anh, Anh-Mỹ hay Anh-Úc th́ là rất tốt. Tuy nhiên, quy tắc phát âm của tiếng Anh khá lung tung v́ tính phổ cập của nó ở các vùng địa lư trên thế giới, ngay cả trong cùng một quốc gia hay một vùng, phát âm cũng đă biến dị rất nhiều. V́ thế, không nhất thiết phải quá hoàn thiện cho vấn đề này, trừ phi bạn cực ḱ cầu toàn.

Nhưng bạn phải rất lưu ư về trọng âm, bởi v́ dù ở các vùng nói tiếng Anh phổ cập nào, tiếng Anh cũng được nói theo một quy ước trọng âm chung nhất. Đây là yếu tố hàng đầu để nói và nghe được thống nhất, tránh nghe nhầm dù trong điều kiện nào.

(Sưu Tầm)

TTran






 
  góp ư kiến

 
 

 

  Kí hiệu: : trang cá nhân :chủ để đă đăng  : gởi thư  : thay đổi bài  :ư kiến

 
 
 
 
Copyright © 2006 EnglishRainbow.com , TodayESL.com & Sinhngu.com All rights reserved
Design by EnglishRainbow.com Group